Đại biểu Hạ viện Hạ_viện_Úc

Mỗi đại biểu hạ viện đại diện cho một địa phận cử tri (địa hạt, hay ghế hạ viện theo cách gọi thông thường). Do thay đổi mật độ cử tri, biên giới của những địa phận cử tri sẽ được uỷ ban bầu cử định lại trước mỗi cuộc bầu cử sao cho số cử tri được chia đều hơn, thường khoảng 60 - 120 nghìn cử tri. Do đó trong cuộc bầu cử liên bang Úc năm 2007 tiểu bang New South Wales có 42 địa hạt, trong khi lãnh thổ Bắc Úc đất tuy lớn hơn nhiều nhưng lại thưa dân nên chỉ có 2 địa hạt. Lá phiếu bầu hạ viện có đủ tên các ứng cử viên trong địa hạt, cử tri phải bầu bằng cách đánh số sắp hạng cho mỗi ứng cử viên theo ý mình, từ số 1 là người mình muốn làm đại biểu và đến số cao nhất cho ứng cử viên mình không thích. Đây là phương pháp bầu cử theo ưu tiên (tiếng Anh: preferential voting).

Trong mỗi phiên họp hạ viện, nghị viên phe chính phủ ngồi nửa bên tay phải của phòng, phe đối lập ngồi bên trái. Giữa là ghế của chủ toạ phiên họp - gọi là nhân viên phát ngôn (tiếng Anh: Speaker). Như hình trên mô tả, Thủ tướng và lãnh tụ đối lập ngồi đối diện nhau ở bàn lớn giữa phòng, phía sau là các bộ trưởng và bộ trưởng đối lập (hàng đầu), sau nữa là các nghị viện không có chức bộ trưởng (hàng sau). Những đại biểu thuộc các đảng nhỏ hơn và nghị viên độc lập ngồi ở các ghế còn lại.

Khi trả lời câu hỏi từ nghị viện khác, thủ tướng, lãnh tụ đối lập, bộ trưởng và bộ trưởng đối lập phải đứng lên trả lời tại hai cái hộp ở bàn lớn. Chủ toạ có nhiệm vụ kiểm soát trật tự, điều khiển không cho các nghị viên gây ồn ào, chửi bới trong lúc có người đang phát biểu. Nghị viên nào tiếp tục có hành động vô lễ sẽ bị trục xuất khỏi phòng họp và có thể bị cấm trở lại trong một thời gian.